ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU
HỌC TIỀN LIỆT TUYẾN
(Bs
Nguyễn Tiến Trung)
- Tiền liệt tuyến (TLT)
là một tuyến dưới BQ và bọc quanh NĐ sau. TLT ngoài chức năng ngoại tiết (tiết
ra tinh dịch đổ vào NĐ) còn có chức năng nột tiết. Tinh dịch được tiết ra bởi
nhiều ống tiền liệt và đổ vào NĐ ở rãnh hai bên lồi tinh. Trong TLT còn có 1
túi bịt nhỏ gọi là túi bầu dục TLT có lỗ đổ ở giữa lồi tinh. Túi là di tích của
đầu dưới ống cận trung thận và được coi như tương ứng với TC ở nữ.
1. Vị trí và hình thể:
- TLT nằm trên hoành chậu
hông, dưới BQ, sau xương mu, giữa hai cơ nâng hậu môn và trước trực tràng.
- TLT có hình nón hoặc
hình trứng, mà đáy ở trên rộng, đỉnh ở dưới hẹp. Có 4 mặt là mặt trước, mặt sau
và hai mặt dưới bên. Là nơi đi qua của niệu đạo TLT.
- TLT chia làm 3 thùy là
thùy phải và thùy trái ngăn cách nhau bởi một rãnh ở mặt sau. Thùy thứ 3 gọi là
eo TLT hay thùy giữa. Thùy giữa nằm giữa niệu đạo và ống phóng tinh.
- TLT rộng 4cm, cao 3cm
và dày 2cm. Trọng lượng từ 15-25g, trung bình 18g, ở ngưới già có thể to gấp
bội, thường phát triển to ra ở phần sau.
2. Liên quan:
- Phía sau bên có thần kinh cương chạy từ TLT trong
phần mạc thành chậu (mạc bên của TLT). Vì vậy, để bảo tồn các TK này, lớp mạc
này cần được bên TLT và trước bó mạch TK (( Walsh et al, 1983 ).
- Đỉnh của TLT liên tục với cơ vòng niệu đạo.
3. Các phương tiện cố
định TLT
- Các dãy cơ trơn trải dài từ mặt sau của vỏ TLT đến
hòa lẫn vào cân Denonvillier. Mô lưới lỏng lẻo nằm giữa cân Denonvillier và
trực tràng. Nằm ở mặt trước và trước bên của TLT, lớp vỏ hòa vào liện tục với
nội mạc chậu. Hướng về đỉnh, dây chằng TLT mu nằm trước và cố định TLT vào
xương mu. Nhánh nông của TM lưng nằm ngoài cân này ở lớp mỡ sau xương mu và đi xuyên qua nó đổ
vào đám rối tĩnh mạch lưng dương vật.
- Hai bên, TLT được kẹp giữa từ các phần mu cụt của
cơ nâng hậu môn và liên quan trực tiếp với mạch nội chậu nằm trên. Dưới chổ nối
của mạc nội chậu và thành, mạc chậu và vỏ TLT nằm riêng biệt và khoang giữa
chúng được lấp đầy các mô mỡ và các nhánh chia của TM lưng dương vật. Mạc nội
chậu thực chất bao bọc lớp cơ và nằm giữa cơ và TLT. Mặc dù đây chính là mạc
nội chậu thành, nhưng thường được gọi là mạc TLT bên (Myers, 1994)
4. Hình thể trong và cấu
tạo của TLT :
4.1. Hình thể
trong :
- Đây
là thành niệu đạo đoạn TLT. Đoạn này chạy xuyên qua TLT từ đáy đến đỉnh nhưng
không chạy theo trục của tuyến. Niệu đạo chạy thẳng xuống dưới, hơi cong lõm ra
trước. Còn trục của TLT chạy chếch xuống dưới và ra trước.
- Niệu
đạo và trục TLT bắt chéo ở phía dưới gần đỉnh tuyến nên hầu hết niệu đạo ở
trước trục tuyến, nhưng có khi có 1 phần nhỏ của tuyến trước niệu đạo.
- Mào
niệu đạo : ở ngay giữa niệu đạo TLT có 1 chổ nổi gờ lên, có khi liên tiếp
với lưỡi BQ ở trên và đi xuống đến tận niệu đạo màng bên dưới.
- Lồi
tinh : ở chổ giữa 1/3 giữa và 1/3 dưới của đoạn NĐ TLT, mào niệu đạo nở
rộng thành 1 lồi hình bầu dục. Ở giữa lồi tinh có lỗ của túi bầu dục TLT và 2
bên có 2 lỗ của ống phóng tinh. Túi bầu dục của TLT là dấu vết còn lại của phần
cuối ộng cận trung thận, tương ứng với tử cung và âm đạo ở nữ.
- Hai
bên lồi tinh là 2 rãnh, ở đáy rãnh có nhiều lỗ nhỏ của các ống tuyến đổ vào.
-
Xoang TLT : là nơi lõm xuống nằm trên mặt trái và phải của mào niệu đạo,
nơi đổ vào của các ống tuyến TLT và niệu đạo.
4.2. Cấu tạo của
TLT :
- TLT
gồm khoảng 70% mô tuyến và 30% lớp đẹm mô sợi cơ. Lớp đệm liên tục với vỏ và
bao gồm các sợi collagen và nhiều sợi cơ trơn. Nó bao quanh và có các tuyến của
TLT và co bóp trong lúc phóng tinh đổ chất tiết TLT vào niệu đạo
- TLT được bao bọc bởi một vỏ gồm: collagen, elastin,
và nhiều sơi cơ trơn. Vỏ ở mặt trước và bên dày trung bình 0,5 mm.
- Các tuyến TLT binh thường có thể thấy ở cơ vòng vân
mà không có lớp mô đệm hay “lớp vỏ”. Ở đáy TLT, các sợi dọc detrusor hoà lẫn và
bện với lớp mô sợi cơ của lớp vỏ.
5. Mạch máu và thần kinh:
- ĐM BQ dưới đi vào TLT, thường có nhiều ĐM chia là 2
nhánh chính: ĐM NĐ và ĐM TLT
- ĐM niệu đạo đi vào chổ nối TLT-BQ phía sau bên và
theo hướng vào trong, vuông góc với niệu đạo. ĐM đi đến cổ BQ ở vị trí 1 đên 5
giờ và 7 đến 11 giờ, với các nhánh lớn nhát ở phía sau. ĐM chạy theo mạct lưng
và song song với niệu đạo, cung cấp máu cho TLT, tuyên quanh niệu đạo, và vùng
chuyển tiếp.
- Trong bướu lành TLT, các ĐM trên cung cấp máu chủ
yếu cho bướu tuyến (Flocks, 1937). Khi các tuyến này bị cắt hay bóc nhân, chảy
máu hầu hết thường ở cổ BQ, đặc biệt ở vị trí 4 đên 8 giờ.
- ĐM TLT: cung cấp máu chủ yếu cho phần vỏ TLT, có
các nhánh nhỏ hơn và đi trước để phân
nhánh trên voẻ bao TLT. Bó ĐM chạy sau bên TLT
cùng với TK cương (bó mạch TK) và tận cùng ở haònh chậu. Các nhánh vỏ đi
qua TLT ở góc phải và theo lưới mạch của mô đệm cung cấp mô tuyến.
5.2. Tĩnh mạch:
- Dẫn lưu hệ tĩnh mạch TLT qua đám rối quanh TLT, tạo
thành đám rối tĩnh mạch TLT.
5.3. Thần kinh:
- Thần kinh đám rối TLT tách từ đám rối hạ vị.
- Phân bố TK giao cảm và phó giao cảm từ đám rối hạ
vị đến TLT qua TK cương. TK đi theo các náhnh của ĐM vỏ đến phân nhánh thành
các thành phần mô đẹm và tuyến.
- TK phó giao cảm tận vùng ở các tuyến nang và kích
thích tiết.
- TK giao cảm gây co thắt cơ trơn của vỏ và mô đệm.
- Các thuốc block adrenergic làm giảm trương lực cơ
vòng trước TLT và mô đệm, làm cải thiện niệu dòng đồ trong bướu lành TLT.
- Peptidergic and nitric oxide synthase–containing
neurons tìm thấy trong TLT và tác động làm dãn cơ trơn (Burnett, 1995).
5.4. Dẫn lưu bạch huyết:
- Chủ yếu đổ vào hạch bịt và hạch chậu trong. 1 phần
nhỏ đổ vào nhóm hạch trước cùng, và ít hơn là đổ và hạch chậu ngoài.
Bệnh tiền liệt tuyến thường xảy ra ở nam giới. Nếu không điều trị kịp thời ảnh hưởng đến sức khỏe của nam giới
ReplyDelete