This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Sunday, November 8, 2015

Ung thư đại trực tràng là gì?


(BS Nguyễn Tiến Trung)
1. Ung thư là gì?
Ung thư là bệnh lý ác tính của tế bào. Khi bị kích thích bởi các tác nhân sinh ung thư, tế bào tăng sinh một cách vô hạn độ, vô tổ chức, không tuân theo các cơ chế kiểm soát về phát triển của cơ thể.
Đa số người bệnh ung thư đều hình thành các khối u. U ác tính hoàn toàn khác với khối u lành tính.
·        U lành tính: chỉ phát triển tại chỗ thường rất chậm, có vỏ bọc xung quanh nên ranh giới rõ, mật độ thường mềm hoặc chắc, không xâm lấn, không di căn, khi bóc đi sẽ khỏi bệnh.
·        U ác tính: thường phát triển nhanh, u thường không có ranh giới rõ, xâm lấn ra xung quanh và thường di căn xa.
Ung thư đại trực tràng là gì?

Ung thư đại trực tràng là ung thư phát khởi nguyên thủy từ ruột già, là phần cuối cùng của ống tiêu hóa.
Sau khi thức ăn được nhai, nuốt qua thực quản và dạ dày, thức ăn được tiêu hóa rồi đi xuống ruột non. Ruột non tiếp tục tiến trình tiêu hóa thức ăn rồi hấp thu các chất bổ dưỡng. Ruột non tiếp nối với ruột già, còn gọi là đại tràng. Đoạn đầu của đại tràng có chức năng hấp thu nước cùng chất bổ dưỡng và là nơi chứa chất bã. Chất bã thành phân đi xuống trực tràng là đoạn cuối của ống tiêu hóa.
Ung thư có thể khởi phát từ bất cứ đoạn nào trên đại tràng hoặc trực tràng. Ung thư xuất phát từ lớp trong cùng của thành ruột (niêm mạc đại trực tràng) sau đó xâm lấn ra ngoài các lớp khác của thành ruột.
Những con số thống kê
    Ung thư trực tràng là ung thư thường gặp trong các ung thư đường tiêu hóa, là bệnh phổ biến trên thế giới đặc biệt là các nước phát triển. Theo tổ chức nghiên cứu ung thư quốc tế ước tính, năm 2002 có 550465 người mới mắc ung thư đại trực tràng, tỉ lệ tử vong của ung thư đại trực tràng chiếm 10,2% những người chết vì ung thư. Ở Mỹ năm 2014 có 90000 bệnh nhân ung thư đại tràng và 40000 bệnh nhân ung thư trực tràng mới mắc. Ở Việt Nam, ung thư đại trực tràng đứng hàng thứ 5 sau ung thư phế quản, dạ dày, gan và vú ở nữ.

2. Nguyên nhân, yếu tố nguy cơ và phòng bệnh
Những yếu tố nguy cơ của ung thư đại trực tràng là gì?
Hiện nay chúng ta chưa biết nguyên nhân chính xác gây ra ung thư đại trực tràng, tuy nhiên có những yếu tố chắc chắn làm bệnh nhân dễ mắc bệnh như:
+ Các polyp đại trực tràng: Các polyp mọc trên thành bên trong của đại tràng hoặc trực tràng và thường gặp ở người trên 50 tuổi. Hầu hết các polyp là lành tính (không phải ung thư), nhưng một số polyp (u tuyến) có thể trở thành ung thư.
+ Viêm loét đại tràng hoặc bệnh CROHN: Một người đã bị một bệnh lý gây ra viêm đại tràng (như viêm loét đại tràng hoặc bệnh Crohn) trong nhiều năm sẽ có nguy cơ ung thư tăng cao.
+Tiểu sử cá nhân bị ung thư: Một người đã bị ung thư đại trực tràng có thể phát triển ung thư đại trực tràng lần thứ hai. Ngoài ra, phụ nữ có tiền sử ung thư buồng trứng, tử cung (nội mạc tử cung), hoặc ung thư vú có nguy cơ cao hơn một chút bị phát triển ung thư đại trực tràng.
+ Tiểu sử gia đình bị ung thư đại trực tràng: Nếu bạn có một tiền sử gia đình dương tính của bệnh ung thư đại trực tràng, bạn có nhiều khả năng hơn những người khác bị phát triển căn bệnh này, đặc biệt là nếu người thân của bạn đã bị ung thư khi còn trẻ.
+ Các yếu tố lối sống: Những người nghiện rượu, hút thuốc lá, hoặc dùng một chế độ ăn nhiều thịt đỏ hoặc bị chế biến và ít chất xơ có nguy cơ tăng cao của ung thư đại trực tràng.
+ Tuổi trên 50: Ung thư đại trực tràng có nhiều khả năng xảy ra đối với những người lớn tuổi. Hơn 90 phần trăm số người mắc bệnh này được chẩn đoán sau tuổi 50 và lớn hơn.
Chúng ta có biết chính xác nguyên nhân ung thư đại trực tràng không?
Chúng ta không biết chính xác nguyên nhân ung thư đại trực tràng, nhưng một số nghiên cứu lớn trên thế giới đã tiến hành và tìm ra. Tuy nhiên vẫn còn nhiều tranh cãi:
Gen sinh ung thư (Oncogenes): các gen sinh ung thư có thể thuộc nhóm các yếu tố tăng trưởng bị hoạt hóa bất thường (c-sis), các thụ thể yếu tố tăng trưởng (HER2/neu và FMS), các phân tử dẫn truyền tín hiệu tế bào (c-SRC, Ras và cFMS), các yếu tố sao chép của nhân tế bào (c-myc). Bất cứ đột biến nào trong các gen trên có thể làm gia tăng tín hiệu làm cho tế bào đi vào chu kỳ phân bào không hợp lý và có liên quan tới sự sinh ung thư.
Gen kháng ung thư (Tumor suppressor genes): là những gen mã hóa cho những protein kiểm soát phân bào theo hướng ức chế, làm dừng chu kỳ phân bào ở một pha nào đó; làm biệt hóa tế bào hoặc mã hóa cho tế bào chết theo chương trình. Khi gen kháng ung thư bị bất hoạt do đột biến sẽ làm biến đổi tế bào theo hướng ác tính. Cho đến nay người ta đã tìm ra nhiều gen kháng ung thư: APC, BRCA1, BRCA2, NF1, NF2, WT1, đặc biệt là P53.

Ung thư đại trực tràng bắt đầu như thế nào?




Ung thư đại trực tràng thường bắt đầu bằng những tổn thương lành tính gọi là polyp. Polyp tuyến là một u lành tính thường gặp ở đại tràng và trực tràng. Hầu hết polyp là lành tính, nhưng một số polyp tuyến có nguy cơ chuyển thành ung thư sau một thời gian. Nếu polyp được cắt bỏ sớm sẽ ngăn chúng chuyển thành ung thư.

Những dấu hiệu cảnh báo của ung thư đại trực tràng


Sàng lọc (tầm soát) ung thư là cần thiết vì hầu hết ung thư đại trực tràng sớm đều không có triệu chứng. Sàng lọc có thể phát hiện sớm ung thư khi chưa có triệu chứng giúp điều trị kịp thời và khỏi bệnh hoàn toàn. Khi ung thư phát triển, ở giai đoạn muộn chúng ta có thể gặp các triệu chứng như đại tiện ra máu bám vào phân, thay đổi thói quen đại tiện (khi thì đại tiện phân lỏng khi thì phân táo), đau bụng, gầy sút cân. Nếu mắc ung thư giai đoạn này khả năng chữa khỏi sẽ thấp hơn rất nhiều.

Tuesday, November 3, 2015

ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU HỌC TIỀN LIỆT TUYẾN

ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU HỌC TIỀN LIỆT TUYẾN
(Bs Nguyễn Tiến Trung)

- Tiền liệt tuyến (TLT) là một tuyến dưới BQ và bọc quanh NĐ sau. TLT ngoài chức năng ngoại tiết (tiết ra tinh dịch đổ vào NĐ) còn có chức năng nột tiết. Tinh dịch được tiết ra bởi nhiều ống tiền liệt và đổ vào NĐ ở rãnh hai bên lồi tinh. Trong TLT còn có 1 túi bịt nhỏ gọi là túi bầu dục TLT có lỗ đổ ở giữa lồi tinh. Túi là di tích của đầu dưới ống cận trung thận và được coi như tương ứng với TC ở nữ.



1. Vị trí và hình thể:

- TLT nằm trên hoành chậu hông, dưới BQ, sau xương mu, giữa hai cơ nâng hậu môn và trước trực tràng.

       
- TLT có hình nón hoặc hình trứng, mà đáy ở trên rộng, đỉnh ở dưới hẹp. Có 4 mặt là mặt trước, mặt sau và hai mặt dưới bên. Là nơi đi qua của niệu đạo TLT.
- TLT chia làm 3 thùy là thùy phải và thùy trái ngăn cách nhau bởi một rãnh ở mặt sau. Thùy thứ 3 gọi là eo TLT hay thùy giữa. Thùy giữa nằm giữa niệu đạo và ống phóng tinh.

- TLT rộng 4cm, cao 3cm và dày 2cm. Trọng lượng từ 15-25g, trung bình 18g, ở ngưới già có thể to gấp bội, thường phát triển to ra ở phần sau.


2. Liên quan:
- Phía sau bên có thần kinh cương chạy từ TLT trong phần mạc thành chậu (mạc bên của TLT). Vì vậy, để bảo tồn các TK này, lớp mạc này cần được bên TLT và trước bó mạch TK (( Walsh et al, 1983 ).
- Đỉnh của TLT liên tục với cơ vòng niệu đạo.

3. Các phương tiện cố định TLT
- Các dãy cơ trơn trải dài từ mặt sau của vỏ TLT đến hòa lẫn vào cân Denonvillier. Mô lưới lỏng lẻo nằm giữa cân Denonvillier và trực tràng. Nằm ở mặt trước và trước bên của TLT, lớp vỏ hòa vào liện tục với nội mạc chậu. Hướng về đỉnh, dây chằng TLT mu nằm trước và cố định TLT vào xương mu. Nhánh nông của TM lưng nằm ngoài cân này ở   lớp mỡ sau xương mu và đi xuyên qua nó đổ vào đám rối tĩnh mạch lưng dương vật.
- Hai bên, TLT được kẹp giữa từ các phần mu cụt của cơ nâng hậu môn và liên quan trực tiếp với mạch nội chậu nằm trên. Dưới chổ nối của mạc nội chậu và thành, mạc chậu và vỏ TLT nằm riêng biệt và khoang giữa chúng được lấp đầy các mô mỡ và các nhánh chia của TM lưng dương vật. Mạc nội chậu thực chất bao bọc lớp cơ và nằm giữa cơ và TLT. Mặc dù đây chính là mạc nội chậu thành, nhưng thường được gọi là mạc TLT bên (Myers, 1994)

4. Hình thể trong và cấu tạo của TLT :
4.1. Hình thể trong :
- Đây là thành niệu đạo đoạn TLT. Đoạn này chạy xuyên qua TLT từ đáy đến đỉnh nhưng không chạy theo trục của tuyến. Niệu đạo chạy thẳng xuống dưới, hơi cong lõm ra trước. Còn trục của TLT chạy chếch xuống dưới và ra trước.
- Niệu đạo và trục TLT bắt chéo ở phía dưới gần đỉnh tuyến nên hầu hết niệu đạo ở trước trục tuyến, nhưng có khi có 1 phần nhỏ của tuyến trước niệu đạo.
- Mào niệu đạo : ở ngay giữa niệu đạo TLT có 1 chổ nổi gờ lên, có khi liên tiếp với lưỡi BQ ở trên và đi xuống đến tận niệu đạo màng bên dưới.
- Lồi tinh : ở chổ giữa 1/3 giữa và 1/3 dưới của đoạn NĐ TLT, mào niệu đạo nở rộng thành 1 lồi hình bầu dục. Ở giữa lồi tinh có lỗ của túi bầu dục TLT và 2 bên có 2 lỗ của ống phóng tinh. Túi bầu dục của TLT là dấu vết còn lại của phần cuối ộng cận trung thận, tương ứng với tử cung và âm đạo ở nữ.
- Hai bên lồi tinh là 2 rãnh, ở đáy rãnh có nhiều lỗ nhỏ của các ống tuyến đổ vào.
- Xoang TLT : là nơi lõm xuống nằm trên mặt trái và phải của mào niệu đạo, nơi đổ vào của các ống tuyến TLT và niệu đạo.
4.2. Cấu tạo của TLT :
- TLT gồm khoảng 70% mô tuyến và 30% lớp đẹm mô sợi cơ. Lớp đệm liên tục với vỏ và bao gồm các sợi collagen và nhiều sợi cơ trơn. Nó bao quanh và có các tuyến của TLT và co bóp trong lúc phóng tinh đổ chất tiết TLT vào niệu đạo
- TLT được bao bọc bởi một vỏ gồm: collagen, elastin, và nhiều sơi cơ trơn. Vỏ ở mặt trước và bên dày trung bình 0,5 mm.
- Các tuyến TLT binh thường có thể thấy ở cơ vòng vân mà không có lớp mô đệm hay “lớp vỏ”. Ở đáy TLT, các sợi dọc detrusor hoà lẫn và bện với lớp mô sợi cơ của lớp vỏ.
5. Mạch máu và thần kinh:
5.1. Động mạch: TLT được cung cấp máu bởi ĐM BQ dưới và ĐM trực tràng giữa.
- ĐM BQ dưới đi vào TLT, thường có nhiều ĐM chia là 2 nhánh chính: ĐM NĐ và ĐM TLT
- ĐM niệu đạo đi vào chổ nối TLT-BQ phía sau bên và theo hướng vào trong, vuông góc với niệu đạo. ĐM đi đến cổ BQ ở vị trí 1 đên 5 giờ và 7 đến 11 giờ, với các nhánh lớn nhát ở phía sau. ĐM chạy theo mạct lưng và song song với niệu đạo, cung cấp máu cho TLT, tuyên quanh niệu đạo, và vùng chuyển tiếp.
- Trong bướu lành TLT, các ĐM trên cung cấp máu chủ yếu cho bướu tuyến (Flocks, 1937). Khi các tuyến này bị cắt hay bóc nhân, chảy máu hầu hết thường ở cổ BQ, đặc biệt ở vị trí 4 đên 8 giờ.
- ĐM TLT: cung cấp máu chủ yếu cho phần vỏ TLT, có các nhánh  nhỏ hơn và đi trước để phân nhánh trên voẻ bao TLT. Bó ĐM chạy sau bên TLT  cùng với TK cương (bó mạch TK) và tận cùng ở haònh chậu. Các nhánh vỏ đi qua TLT ở góc phải và theo lưới mạch của mô đệm cung cấp mô tuyến.
5.2. Tĩnh mạch:
- Dẫn lưu hệ tĩnh mạch TLT qua đám rối quanh TLT, tạo thành đám rối tĩnh mạch TLT.
5.3. Thần kinh:
- Thần kinh đám rối TLT tách từ đám rối hạ vị.
- Phân bố TK giao cảm và phó giao cảm từ đám rối hạ vị đến TLT qua TK cương. TK đi theo các náhnh của ĐM vỏ đến phân nhánh thành các thành phần mô đẹm và tuyến.
- TK phó giao cảm tận vùng ở các tuyến nang và kích thích tiết.
- TK giao cảm gây co thắt cơ trơn của vỏ và mô đệm.
- Các thuốc block adrenergic làm giảm trương lực cơ vòng trước TLT và mô đệm, làm cải thiện niệu dòng đồ trong bướu lành TLT.
- Peptidergic and nitric oxide synthase–containing neurons tìm thấy trong TLT và tác động làm dãn cơ trơn (Burnett, 1995). 
5.4. Dẫn lưu bạch huyết:
- Chủ yếu đổ vào hạch bịt và hạch chậu trong. 1 phần nhỏ đổ vào nhóm hạch trước cùng, và ít hơn là đổ và hạch chậu ngoài.


ĐẶC ĐIỄM GIẢI PHẪU HỌC BÀNG QUANG

ĐẶC ĐIỄM GIẢI PHẪU HỌC BÀNG QUANG
(Bs Nguyễn Tiến Trung )

- Bàng quang là 1 tạng rỗng mà hình dạng, kích thước và vị trí  thay đổi tùy theo lượng nước tiểu chứa bên trong nó. BQ nhận nước tiểu từ 2 thận qua 2 NQ rồi thải nước tiểu qua niệu đạo.
- Trung bình BQ có thể chứa đến 500ml nước tiểu mà không quá căng. Lúc bình thường BQ chứa được 250-350ml nước tiểu thì ta có cảm giác muốn đi tiểu. Trong trường hợp bí tiểu, BQ tăng lên rất to và có thể chứa tới vài lít nước tiểu.



1. Hình dạng và vị trí:
- BQ nằm dưới PM, khi rỗng BQ nằm hoàn toàn trong phần trước vùng chậu. Phía trước BQ là xương mu, phía sau là các tạng sinh dục và trực tràng, phía dưới là hoành chậu. Khi căng BQ có hình cầu và nằm trong ổ bụng.
- Ở trẻ em, BQ có hình giống quả lê với cuống là ống niệu rốn và phần lớn nằm trong ổ bụng. Khi trẻ lớn lên, BQ tụt dần xuống vùng chậu, ống niệu rốn hẹp dần và bít hẳn lại tạo thành dây chằng rốn giữa.
- BQ có hình tứ diện tam giác với 4 mặt : mặt trên, mặt sau và 2 mặt dưới bên.
            + Mặt trên : được che phủ bởi PM, lồi khi đầy và lõm khi rỗng làm cho lòng BQ có hình chữ Y hay T trên thiết đồ đứng dọc.
            + 2 Mặt dưới bên : nằm tựa trên hoành chậu, 2 mặt này gặp nhau ở phía trước bới 1 bờ tròn mà đội khi được gọi là mặt trước.
            + Mặt sau dưới : phẳng, đôi khi lồi. Mặt này còn được gọi là đáy (sàn) BQ và phần trên của sàn BQ được PM che phủ.
- Mặt trên và 2 mặt dưới bên gặp nhau ở phía trước gọi là đỉnh (apex) BQ, từ đây có có dây chằng rốn giữa treo BQ vào rốn. Phần giữa đỉnh và đáy gọi là thân BQ. Ở dưới, tại góc hợp bởi đáy và 2 mặt dưới bên là lỗ NĐ trong, phần BQ quanh miệng NĐ gọi là cổ BQ.
- Trong lòng BQ có 4 miệng ống ( liên quan với 4 góc): 2 miệng NQ, miệng ống niệu rốn và niệu đạo trong.
- Về lâm sàng, BQ được chia theo nhiều phần như: Đáy (sàn), đỉnh (trần), mặt bên, cổ, tam giác BQ.
2. Liên quan :
2.1. Liên quan với PM:
- Mặt trên và phần trên đáy BQ được PM che phủ, một phần BQ của mặt dưới bên nằm sát mặt sau thành bụng trước và ngay trên xương mu nên không có PM che phủ à trong chấn thương vỡ BQ có thể vỡ trong hay ngoài PM.
- Khi BQ rỗng: Phúc mạc sau khi phủ lên BQ sẽ trải ra xung quanh và lật lên trên để che phủ lên thành bên chậu và thành bụng trước ở ngay trên khớp mu.
- Khi BQ đầy : BQ nhô lên trên về phía ổ bụng, chỗ PM từ BQ lật lên trên để che phủ lên thành bụng trướccũng bị đẩy lên cao hơn ànên có 1 phần BQ của mặt bên dưới không có phúc mạc phủ lên nằm lên trên xương mu và sát mặt sau của thành bụng trước.
- Ứng dụng : Bơm căng BQ để mổ vào BQ hay dùng trocar mở BQ ra da hay lấy sỏi BQ trên xương mu mà không đi qua PM.

2.2 Liên quan với các cơ quan xung quanh:
2.2.1. Hai mặt dưới bên: liên quan với xương mu, khớp mu và đám rối TM BQ, nằm trong khối mỡ trong khoang sau xương mu.
- Xương mu : nằm ngay trước BQ nên khi gãy xương mu, các mảnh xương gãy có thể chọc thủng BQ.
- Đám rối BQ nằm sau bên ở 2 mặt bên BQ.
2.2.2. Mặt trên: liên quan với ruột non hay ĐT sigma. Ở nữ thì liên quan với thân tử cung khi BQ rỗng.
2.2.3. Mặt sau: Ở nam liên quan với ODT, túi tinh và trực tràng. Ở nữ liên quan với thành trước âm đạo và CTC.

2.3. Khoang trước BQ (khoang Rezius) và khoang sau xương mu:
- Khoang trước BQ (khoang Rezius) và khoang sau xương mu : 2 khoang được ngăn cách bởi 1 lá mạc trước bàng quang – rốn, khoang sau xương mu nằm trước lá mạc và khoang Retzius nằm sau lá mạc. 2 khoang đều nằm 1 phần ở vùng chậu và 1 phần ở vùng bụng, là 1 phần của khoang ngoài PM trải dài từ nền chậu tới rốn. Trong 2 khoang này là các mô liên kết thưa, mô mỡ và các mạch máu thần kinh tới BQ. Các mô mỡ mềm giúp BQ dãn nở dễ dàng khi có nước tiểu đổ đầy.

- Khoang trước BQ (khoang Rezius)  giới hạn bởi :
Phía
Mốc giải phẫu
Trước
Khớp xương mu
Ngoài
Xương mu, mạc cơ bịt trong, mạc trên của cơ nâng hậu môn, d/c mu- TLT bên
Trong
Mặt dưới bên của BQ
Trên
Phúc mạc nằm trên mặt trên của BQ và thành chậu bên
Sau
Thân mạch máu với bao ngoài ĐM và TM chậu trong. Bao ngoài đi đến bờ bên sau của BQ
Dưới
D/c mu-TLT hay d/c mu- BQ, vùng của mạc trên cơ nâng hậu môn đến BQ từ cung gân mạc chậu

- Khoang Retzius rộng hơn khoang sau xương mu, trải dài lên trên và 2 bên tạo nên 1 khoang có 3 góc giữa các dây chằng rốn bên (ĐM rốn đã tắc) với đỉnh ở rốn và đáy ở các dây chằng mu – TLT hay mu- BQ, khoang có lớp mạc BQ-rốn nằm giữa. Mạc BQ-rốn là 1 lớp mô liên kết hỗn hợp, nằm trải dài trên tới rốn và sau bên tới 2 cột bên BQ.

2.4. Khoang sau bàng quang:
- Ở nam : là ranh giới sau BQ hay trực tràng BQ.
+ Phía trước: mặt sau BQ (với mạc BQ, túi tinh, ống dẫn tinh, phần niệu quản tận, dây chằng thật bên của BQ). 
+ Phía trên: PM và nếp gấp ngang của BQ
+ Phía sau: mặt trước trực tràng với mạc trên trực tràng và vách trực tràng (vách mạc cân Denonviliers)
+ Phía dưới : d/c niệu đạo –trực tràng, hoành chậu.
   Mạc trực tràng và bàng quang là các mô liên kết lỏng lẻo, mà nằm giữa chúng là 1 mạc chắc, mạc 2 lá Denonviliers, mà còn được gọi là khoang Proust ở giữa 2 lá. Khoang sau BQ thật sự nằm giữa mạc BQ và lớp trước của màng BQ-trực tràng hay TLT-trực tràng (cân Denonviliers).


- Ở nữ : giới hạn khoang sau BQ.
+ Phía trước: mặt sau BQ (với mạc BQ, dây chằng thật bên của BQ). 
+ Phía trên: phúc mạc.
+ Phía sau: mặt trước âm đạo với mạc âm đạo trước hay d/c mu cổ tử cung.
+ Phía dưới : chỗ gặp nhau của mạc BQ sau và mạc âm đạo trước ; hoành chậu và niệu dục hay d/c mu cổ tử cung.


 3. Các phương tiện cố định BQ:
- BQ được cố định vững chắc nhất ở đáy và cổ BQ. Cổ BQ được gắn chặt vào hoành chậu. Tiếp nối cổ BQ là TLT và NĐ, gắn chặt vào hoành niệu dục. Cổ BQ còn được cố định bởi dây chằng mu - tiền liệt ở nam hay mu - BQ ở nữ. Các dây chằng này là chỗ dày lên của mạc chậu, nối TLT (hay cổ BQ) vào mặt sau khớp mu.
- Một số dây chằng khác cũng có nhiệm vụ cố định BQ là (thật sự chỉ giữ cho BQ luôn áp vào thành bụng trước, ngay cả khi căng đầy và nhô lên khỏi vùng chậu):
            + Dây chằng rốn giữa: là ống niệu rốn đã xơ hoá và bít tắc lại, treo đỉnh BQ vào mặt sau rốn.
            + Dây chằng rốn trong: là phần ĐM rốn trong lúc phôi thai đã xơ hoá, có nhiệm vụ cố định hai mặt dưới bên của BQ.
- Ở mặt sau, BQ còn được cố định bởi mạc TLT. Ngoài ra, phần PM đi từ mặt trên BQ tới các thành bên chậu và thành bụng trước cũng có tác dụng cố định BQ.


4. Hình thể trong của BQ:
- Mặt trong BQ được che phủ bởi một lớp niêm mạc màu hồng. Khi BQ rỗng, niêm mạc xếp nếp tạo thành nếp niêm mạc. Khi BQ căng các nếp niêm mạc sẽ mất đi.
- Đoạn NQ dưới đến cắm vào BQ, có dạng xoắn ốc và được chôn vùi giữa những sợi cơ trơn theo chiều dọc, có một bao xơ cơ dài 2-3cm bao bọc dọc theo NQ từ thành BQ đến vùng tam giác. Đoạn NQ nội thành BQ đi theo hướng chéo xuống, dài 1,5-2 cm và kết thúc ở miệng NQ. Do đi qua chỗ gián đoạn của cơ detrusor nên NQ bị ép hẹp lại và là nơi sỏi NQ thường bị kẹt lại. Đoạn này rất mềm mại nên khi BQ đầy nước tiểu, nó có tác dụng như một nắp đậy chống trào ngược.
- Có một vùng niêm mạc không bị xếp nếp và có màu đỏ hơn các nơi khác, vùng này có hình tam giác mà ba đỉnh là 2 miệng NQ và miệng NĐ trong, nên được gọi là tam giác BQ. Giữa 2 miệng NQ niêm mạc nổi gờ lên và được gọi là gờ liên NQ. Ở chính giữa tam giác chạy xuống lỗ NĐ trong, có một chỗ niêm mạc gờ lên gọi là lưỡi BQ.

5. Giải phẫu và chức năng khúc nối BQ-NQ:
5.1. Giải phẫu:
- Hutch và Tanagho (1965-1967) giải phẫu khúc nối BQ-NQ  có 4 phần:
  + Cơ BQ với công dụng làm nền cho khúc nối và giúp NQ nội thành giữ vững vị trí chéo góc, gồm cơ dọc trong-ngoài, cơ vòng giữa.
  + Khe niệu quản.
  + Bao Waldeyer (Waldeyer  Sheat)với 2 phần:
         *Phần gắn vào NQ.
         *Phần gắn vào lớp cơ vòng giữa của BQ
  + NQ nội thành

5.1.1. Cơ của vùng tam giác
- Có 3 lớp khác nhau: (1) lớp nông, xuất phát từ cơ NQ chạy dọc xuống niệu đạo lồng vào ụ núi; (2) lớp sâu, từ lớp xơ cơ bao bọc NQ kéo dài liên tục đến cổ BQ ; (3) lớp detrusor ở dọc phía ngoài và giữa lớp cơ vòng của thành BQ.
- BQ được cấu tạo bởi 4 lớp:
            (1) Lớp niêm mạc : là biểu mô chuyển tiếp. Lớp niệu mạc này thường có 6 lớp tế bào và nằm trên lớp màng đáy mỏng.
            (2) Lớp dưới niêm mạc: lớp này không có ở vùng tam giác BQ, là mô liên kết chun dãn tương đối dày. Lớp này có nhiều mạch máu và chứa các sợi cơ trơn.
            (3) Lớp cơ: gồm các bó cơ trơn xếp thành 3 lớp. Các sợi lớn tạo phân nhánh, cuộn lại thành bó xếp theo lớp dọc trong, vòng giữa và dọc ngoài. Ở mặt trên bàng quang các lớp này không phân chia rõ rệt, chỉ phân nhánh thành các sợi vòng và dọc. Gần cổ BQ, lớp detrusor phân rõ thành 3 lớp. Ở đây, cơ trơn về mặt hình thể và dược lý học thì phân biệt với phần còn lại của BQ, vì các bó cơ có đường kính lớn khác nhau ở nam và nữ.
                        +Lớp trong là cơ dọc trong: phát triển nhất ở vùng tam giác BQ. Các sợi dọc trong hướng dạng tia đi qua miệng niệu đạo trong để trở thành liên tục với lớp dọc trong cơ trơn ở niệu đạo.
                        +Lớp giữa là cơ vòng: dày hơn lớp ngoài, đặc biệt là phần trên tam giác BQ. Lớp giữa hình thành cơ thắt vòng trước TLT và đảm trách giữ nước tiểu ở ngay cổ bàng quang. Thành sau BQ đến miệng niệu đạo trong và lớp đệm sợi cơ trước của TLT tạo thành 1 cấu trúc dạng vòng nhẫn liên tục ở cổ bàng quang (Brooks et al, 1998 ). Sự thật là có thể duy trì giữ nước tiểu ở nam mà cơ thắt ngoài đã hỏng, chứng tỏ chức năng của cơ vòng trong (Waterhouse et al, 1973 ). Cơ này có nhiều sợi dạng adrenergic mà khi được kích thích sẽ đóng chặc cổ BQ (Uhlenhuth, 1953 ). Hư tổn thần kinh giao cảm đến BQ, như trong bệnh tiểu đường hay nạo hạch vùng sau phúc mạc trong K tinh hoàn, có thể gây phóng tinh ngược dòng.
+Lớp ngoài là cơ dọc ngoài: Từ lớp này, có một số sợi chạy ra phía trước tới xương mu tạo nên cơ mu - bàng quang. Một số sợi khác chạy ra sau tạo thành cơ trực tràng - bàng quang. Các sợi dọc ngoài là dày nhất nằm sau sàn BQ. Ở đường giữa, chúng chen lẫn vào đỉnh của vùng tam giác BQ và hoà trộn vào cơ trơn của TLT tạo nên vùng sau tam giác mạnh. Hai bên, các sợi từ lớp sau đi ra trước và trộn hoà hình thành vòng quanh cổ BQ. Vòng này được cho là tham gia và giữ nước tiểu ở cổ BQ. Ở bề mặt BQ 2 bên và trước, các sợi dọc không phát triển bằng. Vài sợi trước chạy hướng về dây chằng mu TLT ở nam và dây chằng mu niệu đạo ở nữ. Các sợi này cùng với cơ trơn thành lớp nâng đỡ và giúp cổ BQ mở khi đi tiểu (DeLancey, 1989 ).
(4) Lớp thanh mạc: chính là PM, ở vùng không có PM thì BQ được bao phủ bởi một lớp mô liên kết.
                   
    5.1.2. Khe NQ: là đường hầm tại thành BQ mà NQ nội thành chui qua và có hai lỗ hỏng, một lỗ hỏng nằm tại lớp cơ dọc ngoài và một lỗ hỏng nằm tại lớp cơ vòng giữa. Tại vùng NQ nội thành lớp cơ dọc trong BQ rất mỏng, hầu hư không đáng kể. NQ nằm trong khe NQ nhưng không gắn chặt vào thành BQ ngoại trừ bao Waldeyer.
    5.1.3. Bao Waldeyer: là thớ cơ xuất phát từ lớp cơ vòng giữa của BQ,rồi chạy dọc theo NQ nội thành một quãng dài khoảng 6-8mm cho tới khi NQ lọt ra ngoài BQ. Bao Waldeyer là phương tiện chủ yếu mà NQ bám vào BQ, nhờ bao Waldeyer, sự di động của NQ bị giới hạn trong khoảng 1-2 cm vào trong hay ra ngoài khe NQ. Nhờ bao Waldeyer mà NQ lúc nào cũng giữ được độ chéo góc với thành BQ và khi BQ co bóp thì NQ nội thành xẹp lại.
    5.1.4. NQ nội thành:
- Chiều dài đoạn NQ nội thành ở sơ sinh khoảng 0.5cm. Tỉ lệ giữa đoạn NQ nội thành với đường kính NQ là 4/1-5/1.
- Theo Paquin[3]:
Tuổi
Độ dài niệu quản (mm)
Đường kính miệng niệu quản
Trong BQ
Dưới niêm
1-3
7
3
1.4
3-6
7
3
1.7
6-9
9
4
2.0
9-12
12
6
1.9

- Khi chui vào BQ thì NQ chỉ còn có cơ dọc trong, nên rất mỏng và có thể xẹp xuống được. NQ dưới niêm mạc và tam giác nông có thể bóc tách dễ dàng khỏi tam giác sâu, ngoại trừ quanh cổ BQ hai tổ chức này gắn chặt chẽ với nhau. 
- Theo Lion và cs  miệng NQ có 4 hình thái sau
         + Miệng NQ bình thường.
         + Miệng NQ bất toàn: Miệng NQ hình sân vận động, hình móng ngựa, hình lỗ golf.

5.2. Chức năng khúc nối BQ-NQ
    -Thúc đẩy dòng nước tiểu: giúp nước tiểu chảy mạnh từ NQ sát thành BQ qua miệng NQ thành tia có nhịp độ với một sức mạnh thắng được sức ép của khối lượng nước tiểu chứa trong BQ .
    Tính chất chính yếu của NQ nói chung vẫn tồn tại ở NQ nội thành bao gồm tính trương lực để duy trì một áp lực luôn luôn cao hơn áp lực trong BQ; tính đàn hồi để trở về kích thước và hình dáng cũ sau khi giãn nở; tính co bóp để thúc đẩy mạnh dòng nước tiểu vào BQ; tính nhu động để tiếp nối làn sóng nhu động từ NQ chuyển xuống.
    -Cố định NQ vào thành BQ.
    -Đảm bảo sự di động của NQ trong khe NQ.
    -Bảo đảm sự khép chặt cuả NQ nội thành khi không có nước tiểu chuyển qua nhất là khi BQ co bóp.
-Chống ngược dòng:đây là chức năng quan trọng nhất của khúc nối BQ-NQ.

5.3. Cơ chế chống ngược dòng của khúc nối BQ-NQ
Theo quan niệm của Hutch và Tanagho:
    - Khi BQ co bóp đáy phẳng chạy xuống dưới để thành hình phễu, toàn khối tam giác NQ (nội thành cũng như sát BQ) bị kéo thẳng lên trên, NQ nội thành dài ra và thu nhỏ lại sẽ khép chặt NQ nội thành cũng như miệng NQ.
    - Con đường chéo góc của NQ nội thành cũng là yếu tố chống ngược dòng.
    - Khi BQ không co bóp: ngoại trừ khi dòng nước tiểu phụt qua miệng NQ thì NQ nội thành và miệng NQ cũng khép lại do tính chất trương lực của cơ BQ, của tam giác NQ và NQ nội thành. Tính trương lực này gia tăng khi BQ đầy và đạt tối đa khi BQ co bóp.
    Vì vậy sự suy yếu và giảm hiệu lực của tam giác NQ là những nguyên nhân chính của ngược dòng, và mức độ ngược dòng tùy thuộc vào mức độ suy yếu của tam giác NQ (Tanagho). Nói một cách khác sự nguyên vẹn về cấu trúc cũng như chức năng của tam giác đóng một vai trò quan trọng trong cơ chế chống ngược dòng.

6. Mạch máu và thần kinh:
6.1. Động mạch:
- BQ được nuôi dưỡng bởi các mạch máu xuất phát từ ĐM chậu trong. ĐM chậu trong đi sát thành bên chậu hông, đi sau NQ (P) hoặc đi trước NQ (T) và được vài cm thi chia thành một chùm gồm 11 nhánh cùng: chậu lưng, cùng bên, bịt, mông trên, mông dưới, rốn, BQ dưới, tử cung, âm đạo, trực tàng giữa và thẹn trong.

- Các nhánh của ĐM chậu trong đi vào BQ là:
            + ĐM BQ trên: là phần không bị xơ hoá của ĐM rốn, cấp máu cho mặt trên và một phần của mặt dưới bên BQ.
            + ĐM BQ dưới: cấp máu cho phần sau mặt dưới bên BQ và TLT.
            + Nhánh của ĐM trực tràng giữa: cấp máu cho phần đáy BQ, ở nữ thì đáy BQ còn được nuôi dưỡng bởi các nhánh của ĐM tử cung và ĐM âm đạo.
            + Nhánh ĐM thẹn trong và ĐM bịt: cấp máu cho phần trước dưới BQ.

6.2. Tĩnh mạch:
- Các TM tạo nên một đám rối ở 2 bên BQ, đám rối TM BQ rồi từ đó đổ vào TM chậu trong.
- TM lưng dương vật đi qua giữa xương mu và cơ thắt niệu đạo, đến vùng chậu chia làm 3 nhánh: nhánh bề mặt trung tâm và hai đám rối bên (Reiner and Walsh, 1979). Đám rối TM bên đi xuống cạnh TLT, nhận hồi lưu của nó và trực tràng, và thông với phần dưới của đám rối BQ. Có 3-5 TM BQ dưới thoát ra từ đám rối bên của BQ đổ vào TM chậu trong. Ở nữ, TM lưng âm vật chia đôi đổ vào đám rối 2 bên của âm đạo, thông với đám rối BQ, TC, BT và trực tràng. Sau đó đổ vào TM chậu trong.

-Trong cắt BQ hoặc TLT tận gốc, để tránh chảy máu, phải tách đám rối TM này ra (đoạn trước khi phân nhánh) và khâu cột thật kỹ. Nhánh bề mặt đi xuyên qua cân chậu hông giữa dây chằng mu-TLT và lớp mỡ sau xương mu, trước BQ và TLT.

6.3. Mạch bạch huyết:
- Hạch bạch huyết vùng chậu có thể khó khăn trong thăm khám phát hiện hạch vì nó được bao phủ ở giữa bởi các mô mỡ và mô sợi.
Có 3 nhóm hạch chính đi cùng với các mạch máu vùng chậu (hình). Phần quan trọng của dẫn lưu bạch huyết của các tạng vùng chậu là qua các hạch chậu trong và 3 nhánh của chúng:  hạch trước cùng, hạch bịt và hạch thẹn.
- Hạch chậu ngoài nằm ở bên, trước và giữa theo các mạch máu và đổ về thành bụng trước, ống niệu rốn, BQ, và cơ quan sinh dục trong. Cơ quan sinh dục ngoài và vùng đáy chậu đổ vào nhóm hạch bẹn nông và sâu. Hạch bẹn thông nối trực tiếp với chuỗi hạch chậu trong và ngoài. Các hạch chậu chung nhận các nhánh đi từ các hạch chậu trong và ngoài, hạch NQ chậu và đổ vào hạch bên của ĐM chủ.

                Ứng dụng nạo hạch trong PT cắt BQ toàn phần rộng                                



6.4.Thần kinh:

Gồm các TK tách từ đám rối hạ vị và các TK cùng S2, S3. Các TK này chi phối vận động cho lớp cơ BQ đồng thời nhận những cảm giác từ BQ, chủ yếu là cảm giác căng đầy, cảm giác đau và rát bỏng.  

Monday, November 2, 2015

ĐIỀU KHÓ NHẤT LÀ GÌ?


ĐIỀU KHÓ NHẤT LÀ GÌ?
NTT SƯU TẦM

Lý Gia Thành nói:
Điều khó nhất là gì?
Vay tiền!!
Người có thể cho bạn vay tiền, nhất định là quý nhân của bạn.
Không những cho bạn vay tiền, mà còn không cần đặt ra điều kiện gì cho bạn
Chắc chắn là quý nhân trong các quý nhân.
Ngày nay, những người như vậy không còn nhiều. Nếu gặp được, nhất định phải một đời trân trọng.
Người cho bạn vay tiền khi bạn gặp khó khăn, không phải là người ta lắm tiền, mà là muốn giúp bạn một tay.
Thứ người ta cho bạn vay không phải là tiền, mà là lòng tin, sự tín nhiệm, sự khích lệ, là tin tưởng vào năng lực của bạn, là đánh cược vào bạn-của-ngày-mai.
Mong bạn bè tôi dù thế nào cũng đừng dẫm đạp lên hai chữ "thành tín". Thất tín chính là phá sản lớn nhất của đời người! Hãy trân trọng!
Người bạn trung thực chính là tài phúc của kiếp này!
Đồng thời, xin bạn hãy nhớ
Người hay chủ động thanh toán tiền, không phải do ngu ngốc lắm tiền, mà là người ta coi bạn bè quan trọng hơn tiền bạc.
Người mà khi cùng làm việc nhóm biết bỏ qua lợi ích cá nhân, không phải do đần độn, mà là do hiểu được thế nào là chia sẻ.
Người mà khi làm việc tự nguyện chủ động làm nhiều, không phải do ngu ngốc, mà do biết được trách nhiệm.
Người sau khi cãi nhau tự xin lỗi trước, không phải do người ta sai, mà do hiểu được thứ gì mới đáng để trân trọng.
Người tự nguyện giúp đỡ bạn, không phải do nợ bạn cái gì, mà do thực sự coi bạn là bạn bè.
Người khác giúp bạn là Tình Cảm, không giúp bạn là Bổn Phận, không có thứ gì là đương nhiên phải thế.
Có bao nhiêu người xem nhẹ đạo lý đơn giản này, thì có bấy nhiêu người cảm thấy đây là điều đương nhiên phải thế.
Càng có những kẻ tự cho mình thông minh, đến mức diện mạo cũng hiện lên sự xảo trá;
Loại người này, sớm muộn cũng biến mất khỏi cái nhìn của người khác.
Người chân thành, đi là đi vào lòng người.
Người giả dối, đi là đi khuất mắt luôn.
Nếu người ta gặp nhau trong kiếp này gọi là duyên phận, vậy thì người với người sống chung được với nhau, đều dựa vào chân thành và tín nghĩa
Trở thành loại người như thế nào, đều do sự sâu sắc trong suy nghĩ của mỗi người."

SINH LÝ ĐƯỜNG TIỂU TRÊN

SINH LÝ ĐƯỜNG TIỂU TRÊN
Bs Nguyễn Tiến Trung

1. Sơ lược về giải phẫu đài bể thận
Thận được bọc trong một bao sợi, nhìn trên một thiết đồ đứng ngang đi qua thận ta thấy ở giữa là xoang thận có bó mạch thần kinh và bể thận đi qua. Bao quanh xoang thận là khối nhu mô thận hình bán nguyệt.
Xoang thận thông ra ngoài ở rốn thận, thành xoang có nhiều chỗ lồi lõm, chỗ lồi hình nón gọi là nhú thận cao khoảng 4-10mm. Chỗ lõm úp vào nhú thận gọi là các đài thận nhỏ, có từ 7-14 đài thận nhỏ, hợp lại thành 2 hay 3 đài thận lớn. Các đài thận lớn hợp lại thành bể thận.

Hình 1: Các đài thận lớn, nhỏ, bể thận, niệu quản của thận trái
A.   các đài thận trước; P. các đài thận sau; C. các đài thận hỗn hợp
(Nguồn: Cambell’s Urology, hình 1 - 38)
                              


Hình 2 : Giải phẫu học bên trong thận (vỏ và tủy thận)
(Nguồn: Frank Netter’s Atlats)

v  Đài thận gồm 3 phần:
-         Phần túi vòm (Fornix) có hình tò vò hay hình đáy chén dính chặt vào nhú thận.
-         Phần cổ có hình thon nhỏ
-         Phần khúc nối đài bể thận thon nhỏ hơn nữa.
v  Các tổ chức cơ: dọc theo đài thận có 4 tổ chức cơ:
Cơ nâng túi vòm: khi đài thận co bóp thì cơ này kéo túi vòm lên, khi đài thận giãn thì thả túi vòm tụt xuống.
Cơ vòng túi vòm: Henle lần đầu tiên gọi cơ này là cơ vòng gai, và khi co bóp thì dồn ép nước tiểu thoát khỏi ống gai (nhú) thận. Theo Narath thì cơ vòng nằm ở dưới gai thận và chỉ có tác dụng khép chặt những lỗ của ống gai thận để ngăn chặn hiện tượng ngược dòng đài thận – gai thận.
Cơ dọc đài thận: nàm dọc theo cổ đài thận nhưng không nhất thiết là rheo chiều dọc hẳn, vì có thơ nghiêng và thớ bắt chéo. Khi co bóp, cơ này làm cổ đài thận rút ngắn và thu nhỏ lại, ngược lại khi giãn thì cổ đài thận dài và nở rộng ra.
Cơ vòng đài thận: nằm ở khúc nối giữa đài và bể thận, nơi mà cổ đài thận đổ vào bể thận. Cơ này khép chặt đài thận trong thời kỳ đài thận đón chứa nước tiểu, và ngăn chặn nước tiểu chảy ngược trở lên đài thận khi bể thận co bóp.

2. Sơ lược giải phẫu niệu quản:
Niệu quản là ống dẫn nước tiểu từ bể thận xuống bàng quang. Niệu quản nằm sau phúc mạc, dọc hai bên cột sống thắt lưng và ép vào thành bụng sau.
Chiều dài tung bình từ 25-28cm, chia làm hai đoạn: đoạn bụng và đoạn chậu hông, mỗi đoạn dài khoàng 12,5-14cm. Đường kính niệu quản khi căng vào khoảng 5mm, đều từ trên xuống dưới trừ 3 chỗ hẹp: khúc nối bể thận niệu quản, đoạn bắt chéo động mạch chậu và đoạn nội thành bàng quang.
Thành niệu quản dày khoảng 1mm, được cấu tạo gồm 3 lớp:
-         Lớp niêm mạc: liên tục với niêm mạc bể thận ở trên và niêm mạc bàng quang ở phía dưới.
-         Lớp cơ gồm ba lớp: trong là cơ dọc, giữa là cơ còng, lớp ngoài thô sơ và chỉ gồm vài bó cơ dọc
-         Lớp bao ngoài bao bọc bên ngoài.

3. Sinh lý đường tiểu trên
Đường tiết niệu trên là đường dẫn nước tiểu đi từ ống góp đổ vào đài thận, qua bể thận, xuống niệu quản trước khi đổ vào bàng quang.
Hoạt động sinh lý bình thường chuyển dẫn nước tiểu theo một chiều từ trên xuống dưới, không có hiện tượng trào ngược lại đoạn trên mà nước tiểu vừa qua. Sỡ dĩ được như vậy chính là nhờ cấu trúc giải phẫu của thành đường tiết niệu từ đài thận, bể thận, niệu quản tạo thành đường đi một chiều của nước tiểu.
Theo Narath, hoạt động sinh lý đường tiết niệu trên có 3 tính chất:
·        Tính chất động lực (sự chuyển động của giọt nước tiểu).
·        Tính chất trương lực của thành ống dẫn.
·        Tính chất hấp thu của thành ống dẫn.

3.1. Tính chất động lực:
Chức năng chính của đường tiết niệu trên là thu thập nước tiểu bài tiết từ thận và di chuyển nước tiểu xuống bàng quang trong điều kiện bình thường, hoặc thay đổi khi lượng nước tiểu hoặc áp lực bàng quang thay đổi. Dòng nước tiểu đi từ đài thận tới bàng quang qua bể thận và niệu quản nhờ động lực co bóp. Sức co bóp này cụ thể hóa trên niệu quản thành làn sóng nhu động tương tự như nhu động của ruột. Mỗi đợt co bóp từ đài thận tới hết niệu quản có thể chia làm 4 giai đoạn:
Ø Giai đoạn tích trữ nước tiểu ở đài thận:
Bình thường lòng đài thận xẹp, một phần để bảo vệ nhu mô thận khỏi sự thay đổi áp lực của bể thận, một phần làm dễ dàng sự di chuyển nước tiểu từ ống góp vào đài thận. Do áp lực lọc máu của tiểu cầu, nước tiểu được di chuyển từ nang Bowman xuống tiểu quản và chảy vào đài thận lúc này xẹp và sẵn sàng đón nhận nước tiểu. Để tăng thể tích đài thận, cơ nâng túi vòm dãn ra để túi vòm tụt xuống và nở rộng. Đồng thời cơ vòng túi vòm cũng dãn nở, còn phần trên của cơ dọc đài thận thì co bóp lại. Kết quả là đài thận có hình chén, với áp lực âm tính và có tác động hút nước tiểu qua các lổ gai thận. Suốt trong thời kỳ đài thận nhận và chứa nước tiểu, cơ vòng của khúc nối đài bể thận khép chặt lại để ngăn sự ngược dòng nước tiểu vào đài thận khi bể thận co bóp, vì trong cùng một thời gian, nếu có một số đài thận còn đang ỏ thời kỳ nhận nước tiểu, thì một số đài thận khác lại ở thời kỳ tống thoát nước tiểu vào bể thận làm bể thận đầy và co bóp.

Ø Giai đoạn đài thận co bóp:
Khi đài thận đầy nước tiểu và bắt đầu co bóp thì:
-         Phần trên của cơ dọc đài thận dãn ra.
-         Cơ vòng của “túi vòm” co chặt lại và khép chặt các lổ của gai thận để ngăn nước tiểu chảy ngược dòng lên ống thu thập.
-         Cùng hay ngay sau lúc đó, cơ vòng của khúc nối đài bể thận dãn nở để nước tiểu chảy xuống bể thận, đồng thời phần dưới của cơ dọc dài thận co bóp để thúc đẩy dòng nước tiểu.
-         Trong giai đoạn này cơ vòng của khúc nối bể thận - niệu quản co thắt lại để ngăn không cho nước tiểu chảy ngược từ niệu quản lên bể thận. Như vậy bể thận dần dần đầy nước tiểu, dãn nở và có áp lực âm tính đối với đài thận, áp lực âm tính này có tác dụng thu hút nước tiểu.

Ø Giai đoạn bể thận co bóp:
Khi bể thận đủ đầy nước tiểu đến mức độ kích thích trương lực cơ tạo thành những co bóp đẩy nước tiểu xuống niệu quản. Ngay lúc đó cơ thắt đài bể thận đóng lại, và đoạn khúc nối bể thận niệu quản mở ra. Bể thận co bóp nhịp nhàng, vòng tròn lan dần xuống nơi tiếp nối bể thận niệu quản với nhịp độ từ 3 đến 4 lần, tối đa 6 lần trong một phút. Trong điều kiện bình thường chỉ có 1/3 số lần co bóp bể thận đi tới niệu quản.

Ø Giai đoạn nhu động niệu quản:
Ngay sau khi nước tiểu được đẩy từ bể thận xuống niệu quản, đoạn khúc nối bể thận niệu quản đóng lại, và một làn sóng co bóp niệu quản trỗi dậy, nước tiểu di chuyển vào niệu quản trên. Sóng nhu động đẩy nước tiểu đi nhưng luôn luôn tạo ra một đoạn lòng niệu quản khép lại ở phía trước để ngăn cản nước tiểu trào ngược lại, và cứ thế một nhu động khác đưa tiếp giọt nước tiểu khác xuống dưới. Tốc độ di chuyển của làn sóng nhu động khoảng từ 2cm đến 6cm trong 1 phút.
Trong suốt chiều dài của đường tiết niệu trên, từ đài thận tới đoạn tiếp nối niệu quản bàng quang, người ta ghi nhận được 2 loại áp lực khác nhau:
-         Áp lực cơ bản hầu như không thay đổi khoảng 5cm nước.
-         Áp lực tâm thu thay đổi tùy theo từng đoạn khoảng 15cm nước ở bể thận và tăng khoảng 50cm ở đoạn nối niệu quản bàng quang.


3.2. Tính trương lực:
Sự hoạt động nhịp nhàng di chuyển nước tiểu theo từng cung đoạn từ ống góp đến đài thận, bể thận và từng đoạn niệu quản là nhờ sự vận động của hệ thống cơ thắt và các thớ cơ tạo nên thành ống tiết niệu. Sự hoạt động này còn phụ thuộc với điều kiện bàng quang đầy nước tiểu hay rỗng, cũng như trên đường tiết niệu có bị cản trở không.
Khi bàng quang đầy nước tiểu, trương lức cơ ở thành niệu quản bể thận và đài thận giảm hơn, khẩu kính ống dẫn lớn hơn và nước tiểu ứ đọng hơn. Các hoạt động co bóp của các cơ sẽ có thể giảm tần số nhưng mạnh hơn để đẩy nước tiểu. trường hợp này cũng xảy ra khi trên đương dãn tiểu có vật cản làm sự co bóp nhịp nhàng sẽ thay đổi. Khi bàng quang đã hết nước tiểu hoặc vật cản mất đi, hoạt động sinh lý lại trở lại bình thường.
Ngược lại nếu vật cản tồn tại, khi áp lực cần thiết để đẩy nước tiểu xuống dưới quá cao, nước tiểu phía trên bị ứ đọng, hoạt động co thắt giữa các đoạn giảm, trương lực cơ giảm sút, và nếu vật cản bít tắt hoàn toàn đường niệu thì trương lực cơ càng mất đi và dần dần sự hoạt động co bóp của các cơ thành ống dẫn mất hẳn, đường ống dẫn niệu dãn và mất trương lực. Hiện tượng này có thể phục hồi nếu nguyên nhân ứ tắc được giải quyết sớm.

3.3. Tính chất hấp thu:
Đường ống dẫn niệu có khả năng hấp thu trên chứng minh thực nghiệm cũng như trên đời sống con người. Tuy nhiên sự hấp thu không phải xảy ra đều nhau trên tất cả các đoạn của ống dẫn mà mà thay đổi tùy theo từng đoạn.
Theo Narath thì có 2 cơ chế hấp thu:
-         Cơ chế sinh lý.
-         Cơ chế chấn thương.
Cơ chế sinh lý do ngược dòng bể thận tiểu quản và sau đó là sự hấp thụ của tiểu quản, mạch bạch quyết mao quản. Hiện tượng này có thể thấy trên niệu ký nội tĩnh mạch.
Cơ chế chấn thương do vỡ túi vòm và vỡ tĩnh mạch, kéo theo sự hấp thụ của mạch bạch quyết hay mao quản.